Thực trạng tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long

Tín dụng chính sách xã hội là một chủ trương mang tính nhân văn sâu sắc, đồng thời cũng là một trong những trụ cột trong hệ thống các chính sách giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới. Đây là chính sách hết sức thiết thực, hiệu quả, đã thực sự đi vào cuộc sống và được người dân đồng tình ủng hộ.

Apr 25, 2024 - 22:38
Thực trạng tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long
Tóm tắt: Tín dụng chính sách xã hội là một chủ trương mang tính nhân văn sâu sắc, đồng thời cũng là một trong những trụ cột trong hệ thống các chính sách giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới. Đây là chính sách hết sức thiết thực, hiệu quả, đã thực sự đi vào cuộc sống và được người dân đồng tình ủng hộ. Bài viết trình bày thực trạng tín dụng của Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, từ đó, đề xuất một số khuyến nghị nhằm hoàn thành các chỉ tiêu đã đặt ra trong Đề án cho vay đối với cá nhân, hộ sản xuất, kinh doanh nhằm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình.
 
Từ khóa: NHCSXH, tín dụng chính sách xã hội, Vĩnh Long.
 
THE REALITY OF SOCIAL POLICY CREDIT IN VINH LONG PROVINCE
 
Abstract: Social policy credit is a deeply humanistic policy and one of the pillars in the system of poverty reduction policies, ensuring the social security of the Party and the State in the innovation process. This is a very practical and effective bridge that has come to life and is supported by the people. This article presents the current credit situation of the Vietnam Bank for Social Policies in Vinh Long province. From there, the authors propose several recommendations to complete the targets set out in the loan project for individuals, households to restore the socio-economic development in Vinh Long province according to Resolution No. 11/NQ-CP dated January 30, 2022 of the Government.
 
Keywords: Bank for social policies, social policy credit, Vinh Long.
 
1. Giới thiệu
 
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, hạn chế phân hóa giàu, nghèo, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, xem đây vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển bền vững đất nước; thể hiện đặc trưng cơ bản, thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.
 
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã đề ra nhiều giải pháp hỗ trợ giảm nghèo, động viên được sự tham gia tích cực của toàn xã hội, góp phần giảm số hộ nghèo, hộ cận nghèo; cải thiện dần đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Một trong những giải pháp mang lại hiệu quả là việc hình thành kênh tín dụng dành riêng cho người nghèo và các đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, cụ thể hóa quy định của Luật Các tổ chức tín dụng về phát triển ngân hàng chính sách hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách khác nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước.
 
Ngày 04/10/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg về việc thành lập NHCSXH trên cơ sở tổ chức lại ngân hàng phục vụ người nghèo. Hơn 21 năm xây dựng, phát triển, đồng hành cùng các hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, hệ thống NHCSXH đã triển khai tích cực và đạt nhiều kết quả quan trọng.
 
Tín dụng chính sách xã hội được thiết kế thành hệ thống chính sách đồng bộ, hỗ trợ đa chiều, giúp giải quyết những vấn đề cơ bản, thiết yếu trong cuộc sống của người nghèo và các đối tượng chính sách khác; hạn chế, đẩy lùi vấn nạn cho vay nặng lãi; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội theo định hướng của Đảng, Nhà nước, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ tại vùng nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng trong cả nước và thực hiện thành công Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định trật tự, an toàn xã hội, an ninh quốc phòng; tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
 
2. Thực trạng hoạt động tín dụng chính sách xã hội
 
2.1. Thực trạng tín dụng chính sách xã hội tại Việt Nam
 
Hơn 21 năm hoạt động, hệ thống NHCSXH đã khẳng định vai trò là công cụ kinh tế hữu hiệu của Nhà nước trong việc thực hiện sứ mệnh cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Năm 2023, đánh dấu một năm nỗ lực vượt bậc của toàn hệ thống NHCSXH từ công tác chỉ đạo điều hành đến tham mưu triển khai thực hiện tín dụng chính sách và cũng là năm hệ thống NHCSXH hoàn thành khối lượng công việc lớn nhất trong các năm kể từ khi thành lập đến nay.
 
Các thành tựu quan trọng được kể đến trong giai đoạn 2002 - 2023 như sau: Nguồn vốn tín dụng chính sách tăng gấp 48 lần, từ 7.022 tỉ đồng lên 346.278 tỉ đồng; tổng dư nợ tín dụng tăng 46 lần, từ 7.022 tỉ đồng lên 331.924 tỉ đồng; số lượng khách hàng tăng từ 2,7 triệu khách hàng lên 6,6 triệu khách hàng; dư nợ bình quân tăng từ 2,54 triệu đồng/hộ lên 48 triệu đồng/hộ; tổ Tiết kiệm và vay vốn tăng từ 954 tổ lên 168.464 tổ; tổng doanh số thu nợ toàn hệ thống đạt 59.359 tỉ đồng (Ngọc Mai, 2024).
 
Bên cạnh tăng trưởng dư nợ của các chương trình tín dụng chính sách, chất lượng tín dụng tiếp tục được duy trì ổn định. Tổng nợ quá hạn và nợ khoanh toàn hệ thống là 1.907 tỉ đồng, chiếm 0,57% trên tổng dư nợ. Trong đó, nợ quá hạn là 534 tỉ đồng, chiếm 0,16%; nợ khoanh là 1.372 tỉ đồng, chiếm 0,41%. Toàn hệ thống có 59/63 chi nhánh với tỉ lệ nợ quá hạn không quá 0,5% (Ngọc Mai, 2024).
 
Bên cạnh đó, khi mới thành lập, NHCSXH có 03 chương trình tín dụng chính sách, bao gồm: (i) Cho vay hộ nghèo; (ii) Cho vay giải quyết việc làm; (iii) Cho vay học sinh, sinh viên. Đến năm 2023, đã có đến 27 chương trình, trong đó có một số chính sách thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2022 - 2023.
 
Với mục tiêu 100% người nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu, đủ điều kiện đều được tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ do NHCSXH cung cấp, nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã được giải ngân đến 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước với trên 40,8 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn, doanh số cho vay đạt 742.843 tỉ đồng (Minh Hiển, 2024). 
 
Tín dụng chính sách đã góp phần giúp trên 6,1 triệu hộ nghèo vượt qua ngưỡng nghèo, hỗ trợ kịp thời vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho gần 5,2 triệu lao động, trong đó có gần 135.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; giúp gần 3,8 triệu học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng hơn 15,6 triệu công trình nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn; xây dựng gần 747.000 căn nhà ở cho các đối tượng chính sách (Minh Hiển, 2024).
 
Việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng trong thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của Đảng và Nhà nước, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị, an ninh và trật tự xã hội. Qua đó, góp phần giảm tỉ lệ hộ nghèo giai đoạn 2011 - 2015 từ 14,2% xuống 4,25% (theo chuẩn nghèo quy định trong giai đoạn 2011 - 2015); tỉ lệ nghèo đa chiều giảm từ 9,88% vào năm 2016 xuống còn 5,71% cuối năm 2023 (Minh Hiển, 2024).
 
Những thành tựu to lớn trên đã khẳng định chủ trương của Đảng và Nhà nước là đúng đắn, sáng tạo với những quyết sách kịp thời, nhạy bén và nhất quán trong tổ chức thực hiện, cụ thể là Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội và Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW. 
 
2.2. Thực trạng tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long
 
Tại địa bàn tỉnh Vĩnh Long, để góp phần hoàn thành các chỉ tiêu theo Nghị quyết số 11/NQ-CP và Nghị định số 74/2019/NĐ-CP ngày 23/9/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 61/2015/NĐ-CP, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Vĩnh Long đã ban hành Quyết định số 295/QĐ-UBND ngày 15/02/2023 ban hành Đề án cho vay đối với các cá nhân, hộ sản xuất, kinh doanh nhằm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ.
 
Sau gần một năm ban hành Đề án, ngày 04/01/2024, NHCSXH tỉnh Vĩnh Long đã tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động Ban Đại diện Hội đồng quản trị NHCSXH tỉnh Vĩnh Long năm 2023; đánh giá hiệu quả Đề án số 2804/QĐ-UBND ngày 18/10/2021 của UBND tỉnh Vĩnh Long ban hành Đề án cho vay đối với cá nhân, hộ sản xuất, kinh doanh bị ảnh hưởng do đại dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long và Đề án cho vay đối với các cá nhân, hộ sản xuất, kinh doanh nhằm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ ban hành Kèm theo Quyết định số 295/QĐ-UBND ngày 15/02/2023.
 
Theo báo cáo của NHCSXH tỉnh Vĩnh Long, tính đến ngày 31/12/2023, tổng nguồn vốn của NHCSXH tỉnh Vĩnh Long đạt 3.544 tỉ đồng, tăng 22,9% so với đầu năm 2023. Trong đó, nguồn vốn Trung ương tăng 550 tỉ đồng, nguồn vốn ngân sách địa phương tăng 73,4 tỉ đồng và nguồn vốn huy động được Trung ương cấp bù lãi suất tăng 37 tỉ đồng. Doanh số cho vay đạt 1.182 tỉ đồng với các đối tượng gồm: 31.400 lượt hộ nghèo, cận nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn, tỉ lệ tăng trưởng đạt 23,5%. Doanh số thu nợ đạt 511 tỉ đồng. Tổng dư nợ đạt 3.529 tỉ đồng, tăng 672 tỉ đồng so với đầu năm 2023. Tốc độ tăng trưởng đạt 23,5% với 98.600 hộ vay còn dư nợ và bình quân dư nợ khoảng 36 triệu đồng/hộ.
 
Năm 2023, nguồn vốn tín dụng chính sách đã đáp ứng kịp thời cho các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, giải ngân cho hơn 31.000 hộ vay vốn với tổng số tiền 1.182 tỉ đồng để các hộ phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh, tăng thêm thu nhập cho gia đình. Điều này đã góp phần hạn chế tình trạng người dân đi vay nặng lãi trên thị trường chợ đen; từ đó, chất lượng đời sống của người dân nghèo tỉnh Vĩnh Long được nâng lên, các hộ có tiền mua thêm phương tiện sản xuất và tích lũy vốn nhiều hơn.
 
Cũng theo NHCSXH tỉnh Vĩnh Long, tín dụng chính sách xã hội đã góp phần duy trì việc làm, đồng thời tạo việc làm mới cho 26.033 lao động, đạt 130% kế hoạch, trong đó đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng là 1.706 lao động, đạt hơn 100% kế hoạch năm (tăng 19,64% so với năm 2022); giúp cho hơn 1.600 học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay vốn học tập. Nguồn vốn này cũng đã xây dựng hơn 25.000 công trình nước sạch, vệ sinh ở nông thôn; cho vay xây dựng 38 căn nhà ở xã hội... 
 
Theo Quyết định số 2879/QĐ-UBND ngày 15/12/2023 của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long, tổng số hộ nghèo và cận nghèo trên địa bàn tỉnh giảm từ 12.918 hộ vào năm 2022 xuống còn 9.913 hộ vào cuối năm 2023, chiếm tỉ lệ 3,35% theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 - 2025.
 
Bên cạnh đó, tín dụng chính sách xã hội cũng đã góp phần hỗ trợ chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long đạt nhiều kết quả quan trọng. Cụ thể, năm 2023, tỉnh Vĩnh Long có thêm 06 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; 08 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 01 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; 02 đơn vị cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (Vân Nguyễn, 2024).
 
Qua đó có thể thấy, tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, mục tiêu của Đảng và Nhà nước về giảm nghèo bền vững, tạo việc làm, phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm an sinh xã hội và xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, suy giảm kinh tế kéo dài, do đó, NHCSXH tỉnh Vĩnh Long cần tiếp tục phối hợp với các cấp chính quyền địa phương để hoàn hành nhiệm vụ được giao, góp phần giảm nghèo bền vững, tạo công ăn việc làm, bảo đảm an sinh xã hội và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn trong những năm tiếp theo.
 
3. Một số đề xuất, khuyến nghị
 
Năm 2024, dự báo tình hình kinh tế tiếp tục đối mặt với không ít khó khăn. Vì vậy, để thực hiện và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao theo Đề án cho vay đối với cá nhân, hộ sản xuất, kinh doanh nhằm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ, một số khuyến nghị được đề xuất đối với NHCSXH tỉnh Vĩnh Long như sau:
 
Một là, tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 40-CT/TW. Tăng cường phối hợp với các cơ quan, ban, ngành chức năng hoàn thành các chỉ tiêu của Đề án cho vay đối với cá nhân, hộ sản xuất, kinh doanh nhằm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ. Trong đó, trọng tâm ưu tiên bố trí bổ sung ngân sách địa phương ủy thác sang NHCSXH để cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác góp phần triển khai hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia.
 
Hai là, chú trọng công tác chuyển đổi số, triển khai các dự án trọng tâm nhằm cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tài chính, ngân hàng toàn diện cho các đối tượng khách hàng của NHCSXH. Bên cạnh đó, ngân hàng cần tuyên truyền sâu rộng về hiệu quả của tín dụng chính sách và những mô hình sử dụng vốn vay hiệu quả nhằm tạo sự lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội, khơi dậy tinh thần phấn đấu lao động sản xuất, nỗ lực vươn lên của người vay vốn. Đồng thời, ngân hàng cần hỗ trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh NHCSXH trên địa bàn.
 
Ba là, tiếp tục phối hợp với các cấp chính quyền địa phương để xác định đúng, đủ các đối tượng được cho vay theo các chương trình tín dụng chính sách xã hội. Đồng thời, cần phối hợp với các sở, ngành, phòng, ban liên quan tham mưu cho UBND cùng cấp bố trí nguồn vốn ủy thác địa phương sang ngân hàng để cùng với nguồn vốn Trung ương kịp thời cho vay nhằm giảm nghèo nhanh, bền vững; bố trí nguồn vốn thực hiện các đề án đã được phê duyệt nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn của người dân trên địa bàn.
 
Bốn là, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng trong toàn hệ thống, đôn đốc thu hồi nợ đến hạn, nợ quá hạn; tăng cường công tác tập huấn, kiểm tra, giám sát các tổ Tiết kiệm và vay vốn, tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn góp phần nâng cao chất lượng công tác quản lí và xử lí nợ trong toàn hệ thống. 
 
4. Kết luận
 
Chương trình tín dụng chính sách xã hội với mục tiêu chính là cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác đã và đang mang lại ý nghĩa nhân văn sâu sắc, phù hợp với thực tiễn, là trụ cột quan trọng trong chương trình mục tiêu giảm nghèo bền vững, góp phần hạn chế nạn tín dụng đen. Để góp phần hoàn thành chương trình mục tiêu quốc gia và các chỉ tiêu đã đề ra, NHCSXH tỉnh Vĩnh Long cần tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động, phát triển theo hướng ổn định, bền vững nhằm thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
 
ThS. Nguyễn Thị Ánh Ngọc, ThS. Nguyễn Thị Diễm
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh -  Phân hiệu Vĩnh Long